Monday, August 5, 2013

Dốc hết trái tim ( chương 2)


Một di sản vững vàng là cơ sở giúp bạn hãnh tiến tới 
tương lai 


Mỗi ngày tôi nhắc đi nhắc lại với bản thân mình hàng trăm lần rằng cả
cuộc sống bên trong lẫn cuộc sống bên ngoài của tôi đều dựa vào công
sức của nhiều người khác, cả những người còn sống lẫn những người đã
chết, và rằng tôi phải nỗ lực hết mình để cho đi tương xứng với những gì
tôi đã nhận được.
Albert Einstein




Tương tự việc tôi không phải là người sáng tạo ra Starbucks, Starbucks cũng không phải
là công ty tiên phong mang cà phê espresso và cà phê rang sẫm màu đến nước Mỹ. Trên
thực tế, chúng tôi trở thành những người thừa kế may mắn của một truyền thống vĩ đại. Cà
phê và các tiệm cà phê từ nhiều thế kỷ nay vẫn có một vị trí quan trọng trong cuộc sống
cộng đồng ở châu Âu cũng như châu Mỹ. Chúng đã từng đi liền với biến động  chính trị,
với phong trào của giới văn sĩ, với các cuộc tranh cãi của giới  tri thức ở Venice, Vienna,
Paris và Berlin.
Starbucks gây ảnh hưởng mạnh mẽ vì nó kế thừa di sản này. Nó lấysức mạnh từ chính
lịch sử của mình và những mối dây liên hệ giữa bản thân nó với quá khứ. Đó là điều khiến
Starbucks không đơn thuần chỉ là một công ty đang phát triển mạnh mẽ trên thị trường hay
một cơn sốt nhất thời của những năm 1990.
Đó là điều giúp Starbucks phát triển bền vững.
NẾU NÓ THU HÚT ĐƯỢC BẠN, NÓ CŨNG SẼ LÀM SAY MÊ NHIỀU NGƯỜI
KHÁC
Năm 1981, khi đang làm việc cho Hammarplast, tôi để ý thấy một hiện tượng kỳ lạ: một
nhà bán lẻ nhỏ bé ở Seattle liên tiếp đặt hàng với số lượng  lớn một máy pha cà phê nhất
định. Đó là một thiết bị hết sức đơn giản, chỉ có một miếng nhựa hình nón  đặt trên chiếc
bình thủy.
Tôi bắt đầu tìm hiểu. Hãng cà phê, Trà và Gia vị Starbucks bấy giờ chỉ có bốn cửa hàng
nhỏ,  thế  mà  họ  lại  mua  sản  phẩm  này  với  số  lượng  còn  nhiều  hơn  cả  Macy’s.  Tại  sao
Settle lại mê mẩn loại máy pha cà phê này đến thế trong khi ngày ngày cảcái đất nước này
vẫn luôn dùng những loại bình lọc cà phê bằng điện thông thường?
Thế nên một ngày nọ tôi bảo Sheri, “Anh sẽ đến xem công ty này thế nào. Anh muốn biết
rốt cuộc thì chuyện gì đang xãy ra ở đó.”
Hồi đó tôi đi lại rất thường xuyên, đi khắp đất nước, nhưng tôi chưabao giờ đến Settle.
Thời đó làm gì có ai đến Settle!
Tôi đến thành phố vào một ngày xuân trong vắt và tinh khôi, không khí trong  lành đến
mức phổi tôi như ngừng hoạt động. Những cây anh đào và táo dại vừa bắt đầu trổ hoa. Từ
các con phố trung tâm tôi có thể nhìn thấy những rặng núi phủ đầy tuyết cả phía Đông,
phía Tây và phía Nam thành phố, in lên nền trời xanh một nét đẹp tinh tươm.


Giám đốc kinh doanh bán lẻ của Starbucks, Linda Grossman, gặp tôi ở khách sạn và đưa
tôi đi thăm cửa hàng chính hãng Starbucks tại khu trung tâm chợ Pike Place danh tiếng.
Chúng tôi đi qua các sạp cá hồi tươi rói nơi những cô bán hàng hét toáng vào tai nhau yêu
cầu của khách và ném từng mớ cá nhanh thoăn thoắt, qua những sọt táo tươi sáng bóng và
những dãy bắp cải đều tăm tắp, qua một tiệm bánh thơm nức mùi bánh mì mới ra lò. Đó là
sân  khấu  trình  diễn  nghệ  thuật  của  những  người  nông  dân  địa  phương  và  những  người
kinh doanh nhỏ lẻ. Tôi yêu khu chợ ngay lập tức, và đến giờ vẫn thế. Nó quá tự nhiên, quá
nguyên bản, mang đậm màu sắc của thế giới xưa.
Cửa hàng Starbucks chính hãng là một nơi khá khiêm tốn, nhưng đầy cátính, phía tiền
sảnh hẹp là một nghệ sỹ violon đang chơi một khúc nhạc du dương của Mozart ngay lối
vào, chiếc cặp đựng đàn để mở đón những đồng xu thiện nguyện. Giây phút cánh cửa mở
ra, một hương thơm ngây ngất ùa vào và kéo tôi vào bên trong. Tôi bướcvào và như thể
bắt gặp thánh đường của những người tôn thờ cà phê. Phía sau quầy bán hàng bằng gỗ cũ
là  những  hộp  chứa  các  loại  cà  phê  từ  khắp  nơi  trên  khắp  thế  giới:  Sumatra,  Kenya,
Ethiopia, Costa Rica. Xin hãy nhớ điều này – thời đó hầu hết mọi người đều nghĩ cà phê
chỉ là thức uống đóng lon, chứ ít ai nghĩ đến những hạt cà phê. Còn của hàng này lại chỉ
bán duy nhất cà phê nguyên hạt. Dọc theo hai bên tường là một  cái kệ trưng đầy các ấn
bản về cà phê, có cả những hình ảnh chiếc máy pha cà phê hiệu Hammarplast, màu đỏ,
vàng, đen.
Sau khi giới thiệu tôi với trưởng quầy, Linda bắt đầu nói về lý do tại sao người ta thích
loại máy bình-thủy-và-nón-nhựa này. Một điều khiến họ yêu thích nó là vì  nghi thức pha
chế mà nó mang lại. Starbucks khuyến khích việc pha cà phê bằng tay vì khi dùng máy
pha cà phê bằng điện, cà phê sẽ đóng lại một chỗ và bị cháy.
Khi chúng tôi trò chuyện, trưởng quầy lấy một ít cà phê Sumatra,  nghiền chúng, đặt thứ
bột nghiền được vào một bộ lọc trong miếng nhựa hình nón, và đổ nước  nóng lên trên.
Tuy việc này chỉ mất một phút, anh thực hiện nó một cách hết sức  cung kính, như một
nghệ nhân thực thụ.
Khi anh trao cho tôi chiếc cốc sứ đựng đầy cà phê vừa pha chế, hơinóng và hương thơm
như bao trùm cả gương mặt tôi. Chẳng cần bận tâm đến chuyện thêm đường hay thêmsữa.
Tôi ngấp một ngụm thật nhỏ, từ từ.
Ôi. Tôi ngửa cổ ra sau, hai mắt mở to. Tuy chỉ mới nhấp một ngụm, tôi vẫn có thể khẳng
định rằng nó đậm đặc hơn tất cả các loại cà phê mà tôi từng uống.
Nhận thấy phản ứng của tôi, mọi người cười: “Quá đậm với cậu à?”
Tôi  cười  và  lắc  đầu.  Rồi  tôi  nhấp  một  ngụm  nữa.  Lần  này  tôi  có  thể  cảm nhận  rõ  hơn
hương vị khi nó trượt qua đầu lưỡi.
Đến ngụm thứ ba thì tôi hoàn toàn bị đánh bại.
Tôi cảm thấy như thể mình vừa khám phá ra cả một châu lục mới. Bằng phép so sánh, tôi
nhận ra thứ cà phê mà tôi thường vẫn uống chẳng khác nào nước vo gạo. Tôikhao khát
được biết thêm về trãi nghiệm mới mẻ này. Tôi bắt đầu đặt nhiều  câu hỏi về công ty, về
các loại cà phê từ những khu vực khác nhau trên thế giới, vế các  cách rang cà phê khác
nhau. Trước khi chúng tôi rời cửa hàng, họ còn xay cho tôi thêm một  ít cà phê Sumatra
nữa và tặng tôi một gói làm quà.
Rồi Linda lái xe đưa tôi đến nhà máy rang cà phê Starbucks để giới thiệu tôi với những
người chủ sở hữu công ty, Gerald Baldwin và Gordon Bowker. Họ làmviệc trong một cao
ốc công nghiệp cũ hẹp có tấm cửa hạ bằng kim loại phía trước, cạnh một nhà máy đóng
gói thịt tươi nằm trên đường Airport Way.

Giây phút bước vào, tôi ngửi thấy hương thơm tuyệt vời của những hạt cà phê đang rang,
hương thơm như lấp kín cả căn phòng. Giữa phòng là một thiết bị bằng kim loại dày màu
sáng bạc với một cái khay phẳng lớn phía trước. Linda bảo tôi rằng đó chính là máy rang
cà phê, và tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy một chiếc máy nhỏ như thế có thể cung cấp sản
phẩm cho tận bốn cửa hàng. Một anh thợ rang cà phê quàng chiếc khăn lớn màu đỏ hớn hở
vẫy chúng tôi. Anh múc một muỗng nhỏ, gọi là “mẫu thử”, ra khỏi cái máy, xem xét từng
hạt cà phê, ngửi chúng, rồi đặt chúng trở lại chỗ cũ. Anh giải thích rằng mình đang kiểm
tra màu sắc và chú ý lắng nghe cho đến khi nào mọi hạt cà phê đều nổ hai lần, như thế mới
đảm bảo rang đủ độ. Đột nhiên, sau một tiếng đập mạnh, anh mở nắp cái máyvà đổ một
mẻ cà phê nóng và sáng bóng lên chiếc khay làm nguội. Một cái cầu kimloại bắt đầu xoay
mòng mòng để làm nguội những hạt cà phê, và một làn hương tươi mới tràn về phía chúng
tôi – chắc chắn đó là loại cà phê đậm nhất và tuyệt vời nhất mà bạn từng thưởng thức. Nó
mạnh đến mức đầu óc tôi như choáng váng.
Chúng tôi lên tầng trên và đi qua một dãy bàn cho đến khi đến được khu vực văn phòng ở
phía sau, mỗi phòng đều có cửa sổ cao với lớp kính dày. Mặc dù chủ tịch Jerry Baldwin
lúc đó treo một chiếc cà-vạt bên trong áo lên, bầu không khí vẫn toát lên  vẻ thân thiện.
Người đàn ông có mái tóc sẫm màu và ngoại hình ưa nhìn này mỉm cười và bắt tay tôi. Tôi
có cảm tình với anh ngay lập tức, tôi nhận thấy ở anh sự khiêm tốnvà chân thành, cùng
với một khiếu hài hước sắc sảo. Rõ ràng là cà phê là tình yêu của anh. Anh đang thực hiện
nhiệm vụ giáo dục khách hàng nhận thức được những kỳ tích đến từ cà phê đẳng-cấp-thế-
giới, loại cà phê được rang và pha chế một cách hoàn hảo nhất.
“Đây là một số hạt mới chuyển về từ Java,” anh nói. “Chúng tôi vừa rang một mẻ. Cậu thử
đi.” Tự anh đi pha cà phê, sử dụng một cái bình thủy tinh mà anh gọi là bình ép kiểu Pháp.
Khi anh nhẹ nhàng ấn pít-tông xuống phần cà phê đã nghiền và cẩn thận rót tách đầu tiên,
tôi chợt để ý thấy có ai đó đang đứng ở cửa, một người đàn ông dáng thanh mảnh, để râu,
với mớ tóc bù xù vắt ngang trán và đôi mắt nâu thẫm. Jerry giới  thiệu Gordon Bowker,
cộng sự của anh ở Starbucks, rồi mời anh ngồi cùng chúng tôi.
Tôi tò mò không hiểu điều gì đã đưa đẩy hai người đàn ông này cống hiến hết cả cuộc
sống của mình vì cà phê. Starbucks đã ra đời cách đó mười năm, và họ thì giờ cũng sắp
bước sang độ tứ tuần. Ở họ toát ra thứ tình bạn vô cùng thân thiết, nảy nở từ hồi họ còn là
bạn cùng phòng ký túc xá ở Đại học San Francisco đầu những năm 1960.
Nhưng họ trông rất khác nhau. Jerry kín tiếng và kiểu cách, còn Gordon lạiphóng khoáng
và nghệ sỹ, không giống bất cứ ai khác tôi từng gặp. Nghe họ trao đổi, tôi dám chắc cả hai
đều rất thông minh, đi nhiều nơi và đặc biệt là đam mê cà phê.
Jerry đang điều hành Starbucks, còn Gordon thì chia thời gian của mình cho Starbucks và
công ty quảng cáo của riêng anh, một tờ tuần san mà anh sáng lập, và một nhà máy bia vi
mô* (Microbrewery – một kiểu nhà máy nhỏ chuyên sản xuất một sản phẩm đặc biệt với
số lượng hạn chế) mà anh đang muốn khởi công, tên là Nhà máy bia Redhook Ale. Lúc đó
tôi thật sự thắc mắc không biết thế nào là một nhà máy bia vi mô. Gordon rõ ràng là lúc
nào cũng đi trước thời  đại, trong anh luôn ngập tràn những tri thức  mới lạ và những  ý
tưởng tuyệt vời.
Tôi hoàn toàn mê đắm. Một nền văn hóa hoàn toàn mới đang mở ra trước mắttôi, với xiết
bao điều cần học hỏi và xiết bao nơi cần khám phá.
Chiều hôm đó tôi gọi cho Sheri từ khách sạn. “Anh đang ở xứ sở của Chúa!” tôi nói. “Anh
biết mình muốn sống ở đâu: đó chính là Settle, Washington. Mùa hè này anh  muốn em
đến đây và tận mắt cảm nhận nơi này”.
Đây là thành địa Mecca của tôi. Thế là tôi đã đến.





No comments:

Post a Comment